Lịch sử Đảng_Cộng_sản_Cuba

Một pa nô Đảng Cộng sản tại La Habana

Cuba đã có một số tổ chức cộng sản và theo chủ nghĩa vô chính phủ từ thời ban đầu của nước cộng hòa. Đảng Cộng sản Cuba "quốc tế hóa" ban đầu được thành lập vào thập niên 1920. Những người sáng lập gồm có Blas Roca, Anibal Escalante, Fabio GrobartJulio Antonio Mella. Là một thành viên của Quốc tế thứ ba, đảng này sau này đã được đổi tên thành Đảng Xã hội Nhân dân vì lý do bầu cử. Đảng đã ủng hộ chính phủ của Fulgencio Batista, và có một số thành viên tham gia với cương vị quốc vụ khanh. Đảng Xã hội Nhân dân ban đầu ban đầu kịch liệt phê phán Fidel Castro. Sau cuộc cách mạng đô thị dẫn đến việc Fidel Castro lên nắm quyền vào ngày 1 tháng 1 năm 1959, thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev đã hỏi ý kiến các cố vấn của ông về động cơ và lý lịch của Castro. Những người cố vấn này đã báo cáo rằng Castro là một đại diện của "haute bourgeoisie" (tư bản) và có khả năng đang làm cho CIA.[1]

Bất chấp điều này, sự hợp tác giữa Liên Xô và Cuba gia tăng. Theo đó, vai trò của những người cộng sản trong cuộc sống chính trị Cuba cũng được ủng hộ tương tự. Tháng 7 năm 1961, hai năm sau cuộc cách mạng năm 1959, Các tổ chức Cách mạng Hợp nhất (ORI) đã được thành lập thông qua việc hợp nhất Phong trào 26 tháng 7 của Fidel Castro và Đảng Xã hội Nhân dân do Blas Roca lãnh đạo và Hội đồng Cách mạng 13 tháng 3 do Faure Chomón lãnh đạo. Ngày 26 tháng 3 năm 1962, ORI đã trở thành Đảng Thống Nhất Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Cuba (PURSC) và sau đó trở thành Đảng Cộng sản Cuba vào ngày 3 tháng 10 năm 1965. Đảng này vẫn là đảng chính trị được công nhân duy nhất ở Cuba. Các đảng phái khác, dù hiện là bất hợp pháp, không thể thực hiện vận động hay các hoạt động khác ở quốc gia nếu không sẽ bị xem là "phản cách mạng".

Trong 10 năm đầu tồn tại chính thức, Đảng Cộng sản Cuba khá ít hoạt động bên ngoài Bộ Chính trị. 100 ủy viên Ban Chấp hành trung ương hiếm khi hội họp và 10 năm sau thành lập thì Đại hội đảng lần đầu mới được tổ chức. Năm 1969, đảng này chỉ có 55.000 đảng viên, chiếm 0,7% dân số, khiến đây là đảng cộng sản cầm quyền nhỏ nhất thế giới. Thập niên 1970, bộ máy của đảng này bắt đầu phát triển. Tại đại hội đảng năm 1975, Đảng Cộng sản Cuba đã có 200.000 đảng viên và Ban Chấp hành Trung ương đã hội nghị thường lệ và tổ chức bộ máy. Đến năm 1980, đảng này có 430.000 đảng viên và năm 1985 có 520.000 đảng viên.

Cuộc khủng hoảng do sự sụp đổ của Liên Xô đã dẫn đến đại hội đảng lần thứ 4 năm 1991 là một sự cởi mở và tranh luận chưa có tiền lệ do cấp lãnh đạo cố tạo ra một sự nhất trí của công chúng để phản ứng lại "Giai đoạn đặc biệt". Ba triệu dân đã tham gia vào các cuộc tranh luận và thảo luận trước đại hội đảng về các chủ đề như cơ cấu chính trị và chính sách kinh tế. Đại hội năm 1991 đã định nghĩa lại đảng này là "đảng của đất nước Cuba" thay vì "đảng của giai cấp công nhân". Việc cấm các tín đồ tôn giáo vào đảng đã được dỡ bỏ. Ngoài ra, José Martí đã được nâng lên tầm Karl MarxLenin trong các hình tượng lý tưởng của đảng này.